Di sản làng Việt là tiềm năng văn hóa to lớn. Cần biến tiềm năng đó thành nguồn lực để phát triển nông thôn Việt Nam bền vững và giàu bản sắc.

Di sản làng Việt là tiềm năng văn hóa to lớn. Cần biến tiềm năng đó thành nguồn lực để phát triển nông thôn Việt Nam bền vững và giàu bản sắc.

Làng Bối Khê (Hà Nội) - VĂN HÓA NGHỀ TRUYỀN THỐNG LÀNG BỐI KHÊ

Lịch sử phát triển nghề "Sơn mài"

Sơn mài: Là cách gọi phối hợp giữa chất liệu (sơn) và động tác kỹ thuật (mài). Dựa vào các hiện vật khảo cổ thì các vật dụng có sử dụng chất liệu sơn đã có ở nước ta vào khoảng 2.500 năm trước. Sơn được trích từ cây sơn, cây sơn mọc nhiều ở vùng trung du Bắc bộ, nhiều nhất là ở Phú Thọ. Người xưa dùng sơn chế từ nhựa cây Sơn (gọi là sơn ta) để phủ lên các vật dụng hoặc đồ thờ cúng bằng gỗ, gốm… nhằm làm tăng thêm độ bền và sau đó phát triển dần sang tranh trang trí, vẽ thêm một số những đường nét, hoa văn, cảnh quan thiên nhiên để tạo thêm sự độc đáo cho sản phẩm.

Nghề sơn truyền thống chỉ giới hạn bởi các màu nền đen, đỏ sen, nâu cánh gián và các hoạ tiết vàng, bạc. Các nghệ nhân làm nghề sơn gọi là nghề ”sơn son thiếp vàng”. Khoảng năm 1930 các hoạ sĩ trường Mỹ thuật Đông Dương như Trần Quang Trân, Phạm Hậu, Trần Văn Cẩn, Nguyễn Gia Trí… đã phối hợp với nghệ nhân Đinh Văn Thành tiến hành thử nghiệm, đưa kỹ thuật sơn son thếp vàng vào làm tranh nghệ thuật. Thuật ngữ ”Sơn mài” và ”tranh Sơn mài” có từ đó.

Ngoài trình độ nghệ thuật, hoạ sĩ sơn mài phải có một trình độ kỹ thuật rất cao. Qua nhiều lần vẽ, hong khô, mài phẳng. Sau khi định hình tác phẩm, bức tranh được phủ lên một lớp sơn sau cùng, hong khô (ủ kín) và mài để màu sắc hiện ra. Mài xong, dùng tay xoa bột than để mặt tranh bóng dần. Thời gian thực hiện một tác phẩm có kích thước nhỏ, đơn giản cũng phải mất từ 15 đến 20 ngày. Những tác phẩm lớn có khi phải mất vài tháng, vài năm.

Sơn mài là ưu điểm độc đáo của Mỹ thuật Việt Nam, là sự tìm tòi và phát triển kỹ thuật của lớp nghệ sĩ đàn anh đã đưa nghề sơn (nghề sơn ta) thủ công truyền thống của Việt Nam thành kỹ thuật sơn mài. Tuy nhiên, từ dùng để gọi sơn mài thường được hiểu sang các đồ dùng sơn mỹ nghệ của Nhật, Trung Quốc. Thật ra, kỹ thuật mài là điểm khác biệt lớn giữa đồ thủ công mỹ nghệ nước ngoài và tranh sơn mài Việt Nam.

Vẽ tranh sơn mài có những nguyên tắc “ngược đời”: muốn lớp sơn vừa vẽ nhanh khô, tranh phải ủ trong tủ ủ kín gió và có độ ẩm cao. Muốn nhìn thấy tranh lại phải mài mòn đi mới thấy hình. Hầu hết họa sĩ đồng ý rằng kỹ thuật vẽ sơn mài khó và có tính ngẫu nhiên nên nhiều khi các họa sĩ dày dặn kinh nghiệm cũng bất ngờ trước một hiệu quả đạt được sau khi mài tranh.

Nghề Sơn mài Bối Khê

Tương truyền rằng cụ tổ nghề sơn có tên là Trần Lư - người làng Bằng Vọng, huyện Thượng Phúc, phủ Thường Tín,  trấn Sơn Nam (nay là xã Vân Bình, huyện Thường Tín, Hà Nội). Cụ sinh năm Canh Dần (1470) đỗ tiến sỹ khoa Nhâm Tuất (năm 1502). Năm 1527 dưới thời Mạc Đăng Dung, cụ được cử đi xứ Trung Quốc. Từ Trung Quốc mà cụ đã học được nghề làm sơn đem về dạy cho dân, trước là quê hương cụ. Điều này đã được khẳng định trong cuốn gia phả “Bình Vọng Trần thị gia phả” viết bằng chữ Hán, hiện còn lưu giữ ở Trung tâm Khoa học Xã hội.

Từ làng Bằng Vọng ban đầu, sau đó nghề sơn đã phát triển rộng khắp. Bối Khê là một làng thuộc phủ Thường Tín xưa kia, cùng với làng Bằng Vọng, từ đó nên nghề sơn được phát triển rất sớm.Trước năm 1954, những người thợ Bội Khê chủ yếu đi làm lưu động, tổ chức thành các phường thợ (thường gồm những người là anh em họ hàng), có người thợ cả đứng đầu. Sản phầm của làng nghề thời kỳ này chủ yếu là các đồ thờ, phục vụ công trình tôn giáo, tín ngưỡng.

Những thập niên 60, 70 của thế kỷ trước được xem là thời kỳ thịnh vượng của người dân làng Bối Khê do nhu cầu xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ sang Liên Xô (cũ) và Đông Âu rất lớn. Cả xã có tới 4 Hợp tác xã Sơn mài là Trường Sơn ở Bối Khê, Ngọ Hạ, Mỹ Thịnh ở làng Trung và Hợp Thành ở làng Thượng.

Giai đoạn 1989 – 1991, thị trường xuất khẩu duy nhất của hàng thủ công mỹ nghệ là Liên Xô và Đông Âu không còn nên nghề Sơn Mài phải ngừng sản xuất. Tuy nhiên, kể từ năm 1996, nghề này lại bắt đầu được khôi phục và không ngừng phát triển.

Đặc điểm nghề truyền thống

Các nghệ nhân thêu làng Bối Khê đã cho ra đời rất nhiều sản phẩm đa dạng, từ các nhóm hàng truyền thống như: sơn son thiếp vàng, hoành phi câu đối, tượng Phật với màu sắc lộng lẫy và bền chắc với thời gian để dùng trong các công trình tín ngưỡng… đến các sản phẩm hiện đại đáp ứng thị hiếu, nhu cầu của khách hàng trong và ngoài nước như bát, đĩa, lọ hoa, khay, tranh sơn, tranh khảm...

So với làng nghề sơn truyền thống khác ở châu thổ Bắc Bộ, như làng nghề Cát Đằng (Nam Định, làm nghề sơn quang dầu, sơn mài chắp), Đình Bảng (Bắc Ninh, làm sơn then), Hạ Thái, (Hà Nội, làm sơn mài)..., làng nghề sơn mài Bối Khê mang nét độc đáo riêng với mặt hàng sơn mài khảm, trải qua một quy trình chế tác gồm nhiều công đoán phức tạp. Trung bình, một sản phẩm sơn mài khảm từ cốt mộc đến khi thành phẩm phải trải qua khoảng 12 nước sơn và mất chừng 1 tháng để hoàn thiện 1 lô sản phẩm.

Sản phẩm sơn mài Bối Khê hiện nay được chia làm 3 loại chính là:

-         Sơn mài khảm trứng;

-         Sơn mài khảm trai;

-         Sơn mài bạc.

Có thể chia làm một số công đoạn chính sau: bó hom vóc, trang trí, mài và đánh bóng.

Bó hom vóc:

Việc hom bó cốt gỗ (đồ vật cần sơn) ngày xưa thường được người làm sử dụng giấy bả, loại giấy chế từ gỗ dó nên rất dai, có độ bền vững hơn vải. Cách bó hom vóc được tiến hành như sau: dùng đất phù sa (ngày nay người thợ có thể dùng bột đá) trộn sơn ta giã nhuyễn cùng giấy bản rồi hom, chít các vết rạn nứt của tấm gỗ. Mỗi lớp sơn lại lót một lớp giấy (hoặc vải màn) sau đó còn phải đục mộng mang cá để cài và gắn sơn cho các nẹp gỗ ngang ở sau tấm vóc (ván gỗ) để chống vết rạn xé dọc tấm vải. Sau đó để gỗ khô kiệt mới hom sơn kín cả mặt trước, mặt sau. Công đoạn này nhằm bảo vệ tấm vóc không thể thấm nước, không bị mối mọt, không phụ thuộc môi trường làm gỗ co ngót. Xử lý tấm vóc càng kỹ, càng kéo dài tuổi thọ cho đồ vật cần sơn, mỗi tác phẩm sơn mài có tuổi thọ 400-500 năm.

Trang trí:

Khi có được tấm vóc nói trên (hoặc các mô hình chạm khác bình hoa, các bộ đồ khác), người chế các món đồ phải làm các công đoạn gắn, dán các chất liệu tạo màu cho tác phẩm trước tiên như: vỏ trứng, mảnh xà cừ, vàng, bạc...sau đó phủ sơn rồi lại mài phẳng, tiếp đến dùng màu.

Với kỹ thuật sơn phủ tượng và đồ nội thất như: hương án, hoành phi, câu đối... người thợ phải làm trong phòng kín và quây màn xung quanh để tránh gió thổi các nguyên liệu: quỳ vàng, quỳ bạc, tránh bụi bám vào nước sơn còn ướt.

Vì dầu bóng đã pha màu để vẽ nên độ bóng chìm trong cốt màu tạo thành độ sâu thẳm của tranh, do đó sau mỗi lần vẽ phải mài. Người xưa sử dụng lá chuối khô làm giấy nháp. Đến nay, nguyên tắc đánh bóng tranh lần cuối chưa có gì thay thế phương pháp thủ công vì loại tranh này không được phép phủ dầu bóng. Đó chính là điểm độc đáo của tranh sơn mài. Sự thành công của một bức tranh sơn mài phụ thuộc rất lớn vào công đoạn sau cùng. Có một số thứ để mài và đánh bóng như: than củi xoan nghiền nhỏ, tóc rối, đá gan gà v.v..

Liên hệ trao đổi và chia sẻ
0913 542 332
phcuong39@gmail.com

DI SẢN LÀNG VIỆT

Assoc. Prof. Dr. PHAM HUNG CUONG
Head of Urban and Regional Planning Department
Address: 55 Giai Phong Road, Hai Ba Trung District, Hanoi, Vietnam
Email: cuongph@huce.edu.vn/ phcuong39@gmail.com

Mobile: 0913542332